Thách thức bủa vây doanh nghiệp da giày và bài toán nguyên liệu

Doanh nghiệp ngành da giày hiện còn đang phải đối diện với không ít khó khăn, đặc biệt là các thay đổi từ thị trường. Vấn đề thiếu nguyên liệu cũng là bài toán nan giải.

Những thách thức lớn   

Theo Nhân Dân, bên cạnh tín hiệu vui từ việc các đơn hàng quay trở lại, doanh nghiệp ngành da giày vẫn còn đang phải đối diện với không ít khó khăn, đặc biệt là các thay đổi từ thị trường.

Đơn cử như với thị trường EU, một trong những thị trường lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu khoảng 6 tỷ USD giày dép từ Việt Nam hiện nay đang áp dụng một loạt các quy định về các sản phẩm sinh thái, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, truy xuất chuỗi cung ứng, các yêu cầu về giảm thiểu phát thải carbon đối với các sản phẩm sản xuất… Các nước khu vực Bắc Âu cũng đã và đang chuẩn bị lộ trình áp dụng “nhãn sinh thái thiên nga Bắc Âu” cho các sản phẩm dệt may và da giày.

Khu vực EU cũng đang có xu hướng ưu tiên tiêu dùng các sản phẩm sinh thái, có lợi cho môi trường chứ không dùng các sản phẩm ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra, còn có rất nhiều quy định của EU đối với mặt hàng giày dép như hóa chất, an toàn sản phẩm… cần phải tuân theo.

Hoặc, Cơ chế định giá carbon (CBAM) cũng được EU xây dựng để dần áp dụng với hàng hóa nhập khẩu. Trong khi đó, giày dép là ngành được đánh giá trong quá trình sản xuất gây ra phát thải lớn, do vậy cũng nằm trong số đối tượng chịu tác động từ CBAM. Mặc dù các quy định này có lộ trình áp dụng từ 5-7 năm nữa, tuy nhiên nếu doanh nghiệp không nhanh chóng tìm hiểu và dần thay đổi sản xuất thì sẽ không thể đáp ứng được và đứng trước nguy cơ mất thị trường.

Bất động sản - Thách thức bủa vây doanh nghiệp da giày và bài toán nguyên liệu

Doanh nghiệp ngành da giày hiện còn đang phải đối diện với không ít khó khăn. Ảnh minh họa từ internet 

Hay với thị trường Canada, một trong những thị trường mặt hàng da giày Việt Nam có kim ngạch nhập khẩu tăng trưởng lên đến trên dưới 20% thời gian vừa qua cũng đang trong giai đoạn áp áp dụng trách nhiệm mở rộng với nhà bán buôn và phân phối.

Bà Trần Thu Quỳnh, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Canada chia sẻ, trách nhiệm nhà sản xuất mở rộng buộc các nhà nhập khẩu phải có trách nhiệm với việc thu hồi, quản lý sản phẩm nhựa ở cuối vòng đời sản phẩm như: trả tiền đặt cọc bao bì, thu đổi sản phẩm, lắp đặt điểm thu nhận bao bì… Đây là hàng rào phi thuế quan mà doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này phải tìm hiểu để tìm cách thích ứng.

Đối diện với bài toán thiếu nguyên liệu sản xuất

Theo Công Thương, những năm gần đây, dưới yêu cầu về quy tắc xuất xứ tại các hiệp định thương mại tự do, ngành da giày đã có cải thiện nhất định về tỷ lệ nội địa hóa. Có thời điểm đạt mức 55%, riêng đối với mặt hàng giày thể thao đã đạt 70-80%.

Tuy nhiên, con số kể trên được đánh giá không bao quát hết thực trạng phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, nhất là từ Trung Quốc của các doanh nghiệp da giày. Việc chủ động được nguồn nguyên phụ liệu hay cải thiện tỷ lệ nội địa hoá thực chất là tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp.

Ở tầm vĩ mô, bao quát toàn ngành, trong chuyện phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam băn khoăn khi da giày là ngành xuất khẩu chủ lực nhưng quá tập trung vào gia công và phó mặc nguyên vật liệu cho chuỗi cung ứng ngoài nước.

Hơn nữa, thị trường kinh doanh giao dịch mua bán nguyên phụ liệu da giày tại Việt Nam hầu như không có. Chỉ có một vài chợ bán nguyên phụ liệu hộ gia đình phục vụ cho kinh doanh nhỏ lẻ của thị trường nội địa.

“Bài toán đặt ra là 60 -70% số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngành dệt may, da giày Việt Nam phải loay hoay tự đi tìm nguồn cung nguyên liệu hoặc phải chạy theo sự chỉ định của khách hàng. Điều này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro”, bà Xuân nhấn mạnh.

Phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu là vấn đề lịch sử của ngành da giày, trong bối cảnh đất nước, doanh nghiệp chưa đủ nguồn lực để đầu tư phát triển khâu thượng nguồn thì nhập khẩu là cách giải quyết tốt để đáp ứng năng lực sản xuất ở mức cao, tạo việc làm cho người lao động.

Tuy nhiên, như bà Xuân lo lắng, bối cảnh thị trường nhập khẩu sản phẩm da giày đã rất khác, bên cạnh quy tắc xuất xứ từ các hiệp định thương mại tự do, cấp độ yêu cầu đã tăng lên một mức mới khi các nước nhập khẩu đòi hỏi sự tham gia của vật liệu bền vững, thân thiện môi trường, minh bạch và truy xuất chuỗi cung ứng, chi phí tăng và áp lực lớn về lợi nhuận biên, sáng kiến kinh tế tuần hoàn. “Ngay cả sở thích người tiêu dùng cũng trở nên đa dạng hơn với ưu tiên thiên về sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm có thể tái chế”, bà Xuân cho hay.

Có thể thấy, trong bối cảnh hiện nay bài toán thiếu nguyên phụ liệu của ngành da giày cần một lời giải mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa. Điều này không chỉ là vấn đề có đơn hàng hay không có đơn hàng, bán được hàng hay không bán được hàng mà thậm chí cả sự tồn tại của một ngành sản xuất. Nói như chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành: “Không đáp ứng được các yêu cầu, chúng ta sẽ bị loại khỏi cuộc chơi”.

Dư địa thời gian cho ngành da giày phát triển khâu thượng nguồn không còn nhiều, thậm chí là ngắn. Và cần thiết phải có những giải pháp đột phá để nâng cấp chuỗi giá trị ngành. Trong đó, thúc đẩy phát triển hoạt động của thị trường cung ứng nguyên phụ liệu theo hướng quy mô, chuẩn hóa và minh bạch là thiết yếu.

Đào Vũ (T/h)